Thứ hai, 10/11/2025

Miền đất dịu dàng – Tình sâu ghĩa nặng ông cha!...

Thứ ba, 28/10/2025

Bút ký dự thi của NGUYỄN MINH NGỌC

Một chiều mùa hè nắng nóng, cái nóng từ trên trời đổ xuống từ mặt đường bốc lên, hàng cây hai bên đường như lịm đi trong cái nắng hè oi ả. Người xe đi lại ai cũng vội vàng hối hả, mong mau chóng qua được những đoạn đường nóng lửa. Xe chúng tôi đang đi về Kim Sơn, phía Đông Nam, giáp biển của tỉnh Ninh Bình. Xe rộng, người không đông, là người cùng đoàn chúng tôi vui chuyện, cười nói rộn ràng nên cái nóng giảm đi phần nào; tuy miệng vui chuyện, nhưng có lẽ trong tâm tư không ít người vẫn hướng về một miền quê tươi đẹp thanh bình đang chờ đợi chúng tôi.

Xe dừng lại, nắng vẫn còn chói chang. Bước xuống xe, chưa kịp định thần thì tôi gặp một làn gió mát nhè nhẹ thoảng qua, xoay người lại bất ngờ trước mặt tôi là một dòng sông. Một dòng sông thật đẹp, lòng sông rộng đủ tầm, để bên này nhìn thấy bên kia; đôi bờ có hai đường đê thẳng tắp, kè đá xi măng gọn gàng, cây xanh đã phủ gần kín. Điều cuốn hút tôi nhất là nước dưới sông; toàn bộ khối nước hồng hồng đang trôi chảy, rất nhiều lục bình từ đâu trôi đến, những cánh lá xanh tròn tròn dập dờn theo sóng nước, gặp dòng nước xoáy chúng xoắn lại với nhau, nom như chúng đang nhảy múa trên sông. Đã rất lâu, có lẽ từ ngày học hết cấp ba Gia Viễn, xa dòng sông Hoàng Long quê tôi đến nay tôi mới được nhìn thấy một dòng sông “chở nước”. Tôi đứng ngây người nhìn sông với một cảm giác thân thương tưởng như mình được về lại tuổi thơ !...

Hôm sau, tôi được biết đây là dòng sông Vạc; sông Vạc bắt nguồn từ Hoa Lư chảy qua Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn rồi đổ vào sông Đáy. Đến Kim Sơn dòng sông còn có tên: Sông Trì Chính; như vậy là xe chúng tôi đã dừng lại bên bờ sông Trì Chính, đoạn sông này có một cây cầu mang tên cầu Trì Chính bắc qua sông. Từ một nhà khách bên sông, ngày nào sáng sớm tinh sương tôi cũng mở cửa sổ ngắm nhìn dòng sông, hít thở làn gió mát lành từ sông thổi vào; nhiều lần qua lại trên cầu Trì Chính, lúc râm mát khi nắng nóng chúng tôi vẫn không quên dừng chân bên lan can cầu, chỉ trỏ với nhau nhìn dòng nước chảy về xa ngút ngát; đôi khi tôi đứng lặng, thả hồn theo dòng nước chảy mà thấy mình như cũng đang trôi theo dòng nước. 

Sáng, trưa, chiều rất nhiều người, xe đi lại trên cầu tôi thấy họ đều thật từ tốn dịu dàng và không ít người cũng luôn đưa mắt nhìn theo dòng nước như chúng tôi. Khi mặt trời ngả, rải vàng trên những mái nhà, trên những nóc nhà thờ, thì tiếng chuông chiều trong các thánh đường vang lên ngân nga…như nhắc nhở lòng dân hướng về nơi Chúa; nhắc nhở lòng dân hãy nên sống sao cho tốt đời đẹp đạo!

Qua cầu Trì Chính, dọc theo đường quốc lộ số 10, trong thị trấn Phát Diệm (hiện là xã Phát Diệm), đoạn này chúng tôi đi song song với dòng sông Ân, lúc này thì lòng tôi như  dịu dàng trở lại cùng với dòng Ân!... Không chảy rộn ràng như sông Trì Chính, dòng Ân lặng lẽ trong xanh, đáy sông là cả một khoảng trời xanh mây trắng; hai hàng cây rợp mát ven bờ sông đã được kè đá, xi măng sạch đẹp. Mùa hè những chùm hoa phượng rực lửa, chùm bằng lăng tím mơ màng đan xen với hàng cây lá xanh tươi, cùng với chiếc cầu ngói nên thơ soi mình xuống làn nước trong xanh. Hình như trời mây, sông nước, hoa lá cỏ cây cùng chiếc cầu ngói xinh đẹp có duyên nợ với nhau; bất kể ngày đêm cả hình và bóng đều không thể rời nhau, làm nên một vẻ đẹp êm đềm thơ mộng, khiến hồn ta tràn ngập một niềm xao xuyến dịu dàng!... Có lẽ chưa khi nào tôi được nhìn một dòng sông đẹp như thế này!

Nhiều ngày qua lại bên sông, tôi không thể nào rời mắt được dòng Ân, đôi lúc tôi lắng lòng cảm tưởng như có tiếng dòng sông đang thì thầm với tâm hồn mình; bất chợt trong đầu tôi vang lên câu thơ, của nhà thơ Quách Tấn: “Nước vướng tình sâu chảy lững lờ”( Đá vọng phu – Mùa cổ điển). Câu thơ của nhà thơ tài hoa, gợi cho tôi hiểu ra: Dòng sông Ân yêu thương như mang nặng tình người!

Ngược dòng lịch sử gần hai trăm năm về trước, miền đất Kim Sơn chỉ là một vùng đầm lầy hoang vu ven biển, do được phù sa của các cửa sông đổ ra biển bồi tụ. Nhưng mãi đến cuối năm 1828, Nguyễn Công Trứ, một vị quan tài ba, nhân đức của triều nhà Nguyễn, đã đề xuất chủ trương khẩn hoang vùng đất lầy này để yên dân, và được vua Minh Mạng chấp nhận. Đầu năm 1829, sau khi chiêu mộ dân nghèo các nơi về, phát lương thực cho dân; ông đã tổ chức nhân dân khẩn hoang lấn biển, quai đê giữ đất.

Xin được nói thêm một chút, về một trong những công trình của ông, đó là dòng sông Ân. Ông hướng dẫn người dân đào một dòng sông chạy dọc miền đất đã được khẩn hoang; phía Đông Bắc thông với dòng sông Đáy, sông Đáy đổ ra biển theo cửa Đáy; phía Tây thông với dòng sông Càn, sông bắt nguồn từ Yên Mô đổ ra biển theo cửa Càn. Rồi dọc theo chiều dài của sông Ân, cứ khoảng 300 – 400 mét, ông lại cho đào những nhánh sông nhỏ để dẫn nước vào khắp các cánh đồng. Mô hình dòng sông Ân và các sông nhỏ, tựa như hình xương cá.

Nước ngọt từ hai dòng sông Đáy và sông Càn tràn vào dòng Ân và các nhánh sông nhỏ rồi lan vào khắp các cánh đồng, có tác dụng tưới tiêu, rửa chua khua mặn; khiến cho những hạt phù sa màu mỡ tạo nên những cánh đồng cói, cánh đồng lúa mênh mông, cánh đồng hoa màu, rau quả tươi tốt vv… Qua bao nhiêu gian lao vất vả, một công trình lao động đầy mồ hôi công sức, máu và nước mắt của các vị tiền bối đã tạo dựng nên miền đất lành. Một miền quê trù phú được hình thành, làm thay đổi toàn bộ cảnh quan của vùng bãi lầy lau sậy mênh mông. Ông đặt tên cho miền đất là: Kim Sơn, chắc ông đã nhìn thấy tương lai của miền đất này sẽ giàu có như một “núi vàng”; ông đặt tên cho dòng sông: Sông Ân, một dòng sông có nhiều ân nghĩa với các cánh đồng, và có lẽ cũng là ân tình ân nghĩa của ông đối với người và đất Kim Sơn!

Qua sử sách chúng ta được biết, Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất của nước ta, ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19, một ông quan tài giỏi; một nhà thơ tài hoa; một nhân cách lớn, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo, điều này luôn thể hiện trong những câu thơ của ông để lại với hậu thế:“Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông.”

Câu thơ như một tuyên ngôn về chí hướng làm người của ông. Vậy nên, cho dù cuộc đời làm quan trải qua nhiều thăng trầm, nhưng ông luôn giữ vững khí tiết, hết lòng phục vụ triều đình, cho tới năm cuối cùng của cuộc đời 1858, đã ở tuổi 80 ông vẫn dâng sớ tâu Vua xin tòng quân đánh giặc.

Nguyễn Công Trứ qua đời, ông đã để lại một di sản vô cùng quý giá cho dân tộc. Để tri ân công lao to lớn của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, nhân dân Kim Sơn đã lập đền thờ ông ngay từ khi ông còn sống. Đền thờ, hiện đang ở xóm 16, xã Quy Thiện, huyện Kim Sơn (cũ), tỉnh Ninh Bình; đền thờ đã được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia từ  năm 1992. Tôi cảm nhận rằng, ông còn để lại cho nhân dân Kim Sơn một tài sản quý giá phi vật chất lớn lao hơn thế nữa, đó là: Nhân cách sống và những kinh nghiệm quý báu trong quá trình lao động của ông.

Theo một tài liệu của huyện Kim Sơn (cũ), sau năm 1954 hoà bình lập lại trên miền Bắc; được kế thừa kinh nghiệm quai đê giữ đất, thiết kế nội đồng của vị quan tài ba, nhà Doanh điền Nguyễn Công Trứ, một số đơn vị bộ đội và nhân dân Kim Sơn, đã không quản ngại gian khó, không tiếc mồ hôi xương máu quyết tâm hoàn thành công việc khẩn hoang lấn biển. Cuối cùng thị trấn Bình Minh (nay là xã Bình Minh), một miền đất rộng lớn đã hình thành. Với một mô hình tổng thể cũng là hệ thống xương cá, tưới tiêu kênh rạch; các cầu cống, các đường giao thông; đồng thời là các con đê biển chắn sóng giữ đất.

Cho đến ngày nay, chúng ta lại được thiên nhiên ban tặng thêm những miền đất mới, đó là hai đảo nhỏ có tên: Cồn Nổi, Cồn Mờ. Trên đường ra đảo, xe đi theo con đường dọc thị trấn Bình Minh (cũ), chúng tôi tiếp tục gặp các đê Bình Minh 1; đê Bình Minh 2; đê Bình Minh 3… Mỗi lần gặp con đê dài chắn ngang như một chiếc cầu vồng, lòng tôi lại trào lên một tình cảm tự hào, đây là nơi đánh dấu cuộc đấu tranh giữa ý chí con người với thiên nhiên.

Tận xa xa thị trấn Bình Minh (cũ), nhà của nhân dân đan xen trong khói lam chiều, phố xá ngay ngắn phong quang cứ lần lượt diễu qua xe chúng tôi. Tôi nhận ra đất đai hình thành đến đâu, thì sự sống sinh sôi nảy nở đến đó; những cánh đồng lúa, đồng cói xanh rờn, những đầm nuôi tôm, nuôi cá san sát bên nhau, hàng ngàn bọng ong mật xếp lẫn trong cỏ ở ven đường, vô vàn các chú ong mải mê với bạt ngàn những bông hoa sú vẹt trắng tinh khôi… Song song với đường xe chúng tôi đi là một dòng sông, nước sông đầy ăm ắp trong xanh, thong thả trôi theo chiều con nước; những cụm lục bình xanh rờn nhởn nhơ trôi loanh quanh rồi dạt về phía bên kia. Ở bên ấy là nhà của dân, làm thành dãy phố thẳng hàng quay mặt ra sông. Các nhà đều giống nhau, qua cái sân nhỏ là mảnh vườn rau tươi tốt, hàng rào mảnh mai gần sát ven sông nâng đỡ các giàn hoa ti gôn, cây hoa giấy, những bông hoa hồng hồng vươn qua bờ giậu, các tay hoa ti gôn cong cong yểu điệu, lả lơi buông xuống gần tới những cánh hoa lục bình tim tím dưới sông; hình như cả hai loài hoa đều muốn với vin để được chạm vào nhau, một niềm quyến luyến ngọt ngào của sự sống. Đã về cuối chiều, trong ánh sáng dịu êm, vẻ đẹp thanh bình của miền quê hiện lên hiền hoà dung dị, khơi gợi trong lòng ta một chút bâng khuâng thương nhớ mông lung…

Xe chúng tôi vẫn đi, từ thị trấn Phát Diệm (cũ) tới đê Bình Minh 3, đã được 15 km, xe đi tiếp đi trên một cây cầu bắc qua biển dài gần 6 km nữa thì ra đến Cồn Nổi. Trên cồn đất nổi, phi lao đã mọc thành rừng, tuy cây còn nhỏ nhưng xanh tốt um tùm, cây cỏ lưa thưa mà xanh tươi mướt mát đang dần dà lan rộng hướng về bãi phù sa nâu đỏ rộng lớn. Hai ngôi nhà của đồn biên phòng xây vững chắc cùng một cột cờ cao, lá cờ Tổ quốc bay hiên ngang, giữ vững chủ quyền dân tộc. Chúng tôi được các chiến sĩ tiếp đón nồng nhiệt, qua lời kể của cán bộ trưởng trạm biên phòng, cồn đất nổi có diện tích khoảng hơn 1000 ha, cách xa đất liền khoảng 6 km, trước kia ra đây phải đi bằng tàu, đến năm 2017 được nhà nước đầu tư xây dựng cây cầu vượt biển. Anh bộ đội chỉ cho chúng tôi nhìn qua con đê chắn sóng của Cồn Nổi, phía xa xa một cồn đất mờ mờ; anh nói rằng cồn đất này rộng khoảng 40 – 50 ha; nhà nước đã xây một trạm biên phòng.

Mặc dù hai cồn đảo này còn hoang sơ; nhưng, chúng ta đã biết chỉ cần có đất, có bàn tay, khối óc của con người như nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nói: “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Tại nơi cồn đất nổi này dưới ánh chiều, tôi đã gặp những người dân lao động đi mở đất, họ về nghỉ trong những lán nhà dựng tạm, nhìn những gương mặt bình dị, quần áo còn dính bùn đất phù sa mà gương mặt vẫn vui tươi, tôi cảm thấy biết ơn và kính trọng họ. Tôi tin, sẽ đúng như lời của anh bộ đội trưởng trạm biên phòng nói, tương lai của hai cồn đảo này rất tốt đẹp; sẽ là nơi dự trữ sinh quyển; có tiềm năng du lịch thiên nhiên, sinh thái nghỉ dưỡng góp phần làm nên sự giàu đẹp của miền đất Kim Sơn. 

Vâng, Kim Sơn thân yêu của chúng ta được thiên nhiên ưu đãi, luôn có phù sa bồi tụ, đất đai ngày một rộng thêm ra, noi gương Người mở đất, các thế hệ người dân nơi đây đã làm nên một diện mạo Kim Sơn mới, với diện tích lớn gấp gần bốn lần Kim Sơn cũ. Thêm một điều nữa, chúng ta không thể không nói đến: khu nhà thờ đá, có diện tích 22 ha, xây dựng từ cuối thế kỷ thứ 19 là một khu nhà thờ đá to lớn và đẹp nhất nước ta thời bấy giờ. Ngày nay người dân Kim Sơn cũng như người dân các vùng lân cận có thêm một đức tin vào Chúa, và cũng không ít người thực hiện được lời dặn của Chúa: Sống tốt đời đẹp đạo. Và khu nhà thờ đá cũng là nơi du lịch nổi tiếng của Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Tâm tư tôi bỗng nhận ra một tình cảm thiêng liêng; vâng, có lẽ cả đất và người của miền quê giàu đẹp thân thương nơi đây, đều mang trong mình: Tình sâu nghĩa nặng ông cha/ Ngàn năm vẫn mãi nở hoa dâng Người.                                                                                                                            

                                                                       

                                                                                    N.M.N

(Nguồn: TC VNNB  số 310-9/2025)

Bài viết khác