

VŨ VĂN LÂU
“Làng là một khối cư dân ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất trong hệ thống chính quyền xưa” (Theo từ điển Tiếng Việt năm 1992).
Ngày nay, đơn vị hành chính cơ sở là xã, phường, thị trấn, nhưng đơn vị làng vẫn tồn tại bền vững và giữ được những đặc điểm cơ bản xưa. Từ lâu, người dân đã xác định “Sống ở làng, sang ở nước”. Tuy ít chịu sự sáp nhập, chia tách dẫn đến đổi tên so với đơn vị lớn xã, huyện, song những thay đổi lớn của mỗi thời đại, thời kì, có nơi, có lúc làng cũng phải có những biến đổi về phạm vi, diện tích, do đó tên làng cũng ít nhiều thay đổi theo để phù hợp. Thường làng thay đổi tên thì cổng làng cũng đổi tên theo. Tuy nhiên cũng có những trường hợp làng, xã, huyện đổi tên mà tên cổng vẫn giữ như xưa. Mới hay, cổng làng có tên tuổi và đời sống riêng tương đối bền vững.
Cùng với cây đa, giếng nước, mái đình, cổng làng cũng là cảnh quan vật thể vốn rất quen thuộc với các thế hệ nông dân thuộc cộng đồng dân cư của làng. Cổng làng là một công trình biểu tượng của làng, là mốc giới trọng yếu, một nơi án ngữ, canh trừng, ngăn chặn những trắc trở như nạn trộm cướp, xâm lấn, tranh chấp, giặc dã... Trong cổng làng là khoản ước, lệ làng, tập tục có trong hương ước để chính quyền dễ bề quản lý. Hẳn bạn đọc còn nhớ trang đầu tiên trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là cảnh cổng làng bị đóng chặt ngăn không cho mấy chục người cùng cày bừa, trâu bò ra khỏi cổng vì Trương Tuần theo lệnh của Lý trưởng làng Đông Xá là phải giữ họ lại để thúc ép các ông chủ phải nộp đầy đủ sưu thuế mới cho ra. Chính đây cũng đã khẳng định sự độc lập tương đối, những cái riêng có của mỗi làng “Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ”.
Cổng làng còn là then chốt của thành luỹ bao bọc quanh làng nhất là khi có sự lấn chiếm, tấn công vào làng của các thế lực ngoại lai. “Làng kháng chiến” chống Pháp, “làng chống càn” là một ví dụ. Để bảo vệ, làng xưa thường có hào sâu, tường vây bằng đá hoặc có luỹ tre xanh bao bọc. Nếu có tiếng tù và hay tiếng trống, kẻng báo động, người có chức trách phải chạy ra ngay chốt giữ cổng làng để chặn đứng đường thoát thân thuận tiện nhất của bọn trộm cướp.
Cổng làng xưa được xem như một công trình văn hoá bởi cấu trúc, kiểu dáng, quy mô với những đường nét, trang trí, hoa văn, chữ nghĩa, trạm khắc trên cổng. Thường hai bên cổng làng có một hai đôi câu đối: Tạo dựng cơ đồ lưu vạn thuở/ Dân an Quốc thái tụ bồi văn.
Chút nắng mùa đông Ảnh của VŨ ĐỨC PHƯƠNG
Phần lớn câu đối đều có nội dung ca ngợi gia phong nề nếp, cảnh vật xóm làng, dẫn dạy lối sống tình nghĩa, chăm chỉ học hành làm rạng danh làng xóm quê hương.
Cổng làng xưa nay vẫn là một thiết chế văn hoá làng mang đậm bản sắc dân tộc. Dù đã trải qua nhiều thăng trầm của lích sử, biến cải của xã hội, song cổng làng vẫn thân thuộc với niềm tự hào sâu lắng trong tâm tưởng của dân làng. Nhất là với những người xa xứ luôn nhớ về quê hương bản quán; Hình ảnh cổng làng không bao giờ phai mờ trong tâm trí. Dù cổng làng còn hay mất thì trong trí nhớ họ vẫn tồn tại một cổng làng rêu phong quen thuộc. Cổng làng mang nhiều kỉ niệm vui buồn, ai cũng không dễ lãng quên nơi bước chân ra đi, nơi có người hẹn hò, tiễn biệt và chào đón khi ta trở về. Từ ngàn đời, cổng làng thân thương ấy vẫn thầm lặng chứng kiến từng số phận con người đi qua. Cũng như cây đa, bến nước, sân đình, cổng làng còn là nơi gặp gỡ, đón đưa, giao hoà tình làng nghĩa xóm. Không chỉ là địa giới, là nhân chứng lịch sử lưu giữ kí ức của con người mà cổng làng còn là nơi thể hiện cái thần thái của làng quê Việt Nam. Nên có nhiều người xa quê vốn có tâm với quê vẫn liên lạc với làng, có khi trực tiếp về chung tay cùng dân xây lại cổng làng, một khi cổng làng vì nhiều lý do không còn nữa.
Trong điều kiện kinh tế, xã hội đang hằng ngày đổi mới, phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu đường đi lối lại cần được nâng cấp, mở rộng, nhiều cổng làng thấp, nhỏ tỏ ra không phù hợp với thời kì phát triển và hội nhập, xây mới là một nhu cầu hiện thực. Đường làng đã, đang được rải nhựa hoặc bê tông hoá dài rộng, liên thông với huyện lộ, tỉnh lộ, tiếp nhận những phương tiện giao thông cơ giới lớn hơn nên việc nâng cấp, xây mới cổng làng là điều tất yếu, đáng mừng. Tuy nhiên nó là một biểu tượng văn hoá nên xây cổng làng như thế nào cho phù hợp là điều đáng phải suy nghĩ, không thể tuỳ tiện. Nhiều địa phương đang cố gắng đáp ứng nhu cầu như trên, nhất là từ khi có phong trào xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá phát triển. Một số nơi đã tích cực xây dựng mới và xây dựng lại cổng làng .
Tuy nhiên, lại có một số nơi do nhận thức chưa đầy đủ, chưa kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, lại thiếu sự hướng dẫn cụ thể của các ngành chuyên môn nên có những cổng làng rơi vào tình trạng chắp vá hình thức, hoặc quá sơ sài hoặc quá cầu kỳ chạm trổ, vẽ vời những đường nét hoa văn cũ, mới lẫn lộn, tô vẽ nhiều màu sắc xanh đỏ... lấn át cả phần chữ chính trên cổng gây phản cảm cho người nhìn và không ăn nhập với cấu trúc, cảnh quan tổng thể của làng. Về mẫu mã kiến trúc xưa nay, cổng làng mỗi nơi một khác theo quan niệm ý tưởng riêng và cả điều kiện khả năng huy động kinh phí xây dựng của từng làng. Có làng chỉ mở rộng, nâng cao cuốn vòm, có làng làm cổng hai tầng tám mái cong, lại có làng làm kiểu tam môn (ba cửa) vật liệu đa phần gạch đá, bê tông cốt thép đồ sộ...
Dù được cấu trúc quy mô lớn nhỏ như thế nào thì cổng làng vẫn phải thể hiện cho được cái nếp sống, nếp nghĩ, cái thần thái của làng của cả cộng đồng dân cư ở đó. Cổng làng phần nào phản ánh được sự giàu sang, hay đạm bạc, hoặc có truyền thống học hành khoa bảng hay không nói cách khác cổng làng là thần thái, nét đẹp văn hoá của một làng.
“Nhà có nóc, làng có cổng”, từ xưa các làng dù nghèo khó đến đâu, nhà dân có thể còn xộc xệch, xiêu vẹo, thậm trí có người phải ở đậu nhờ gốc gạo, điểm làng nhưng vẫn phấn khởi tự hào rằng làng mình không chỉ có đủ đình, chùa, đền miếu, quán... mà còn có cả cổng làng.
Cổng làng từ rất xa ta đã có thể nhìn thấy vì nó thường được đặt ở trước làng. Dù ngựa xe, người quyền cao chức trọng, quần chùng áo, dài đến trước cổng làng ai mà chẳng phải dừng chân đôi chút, thành tâm cung kính trước cổng làng rồi mới bước vào.
V.V.L
(Nguồn: TC VNNB 297-9/2024)