Thứ hai, 07/10/2024

Thương nhau chia củ sắn lùi…

Thứ tư, 05/06/2019

Tản văn của TẠ VĂN SỸ

Theo các tư liệu thì cây sắn còn gọi là mì, gốc vùng Nam Mỹ, được du nhập vào Việt Nam khoảng từ thế kỷ XVIII. Từ đó, hai đầu Bắc và Nam Việt Nam đều có sắn. Ở khu vực Tây Nguyên cây sắn cũng đã có mặt từ lâu.

Minh chứng cho điều này là trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số tại chỗ cũng đã có tên gọi riêng: người Ba-na gọi sắn là bum blang, người Xơ-đăng gọi sắn là pum loăng. Tuy nhiên cây sắn đã đột ngột “tây tiến” lên Tây Nguyên một cách ào ạt, đại trà là vào khoảng những năm 60 thế kỷ XX, và nó trở thành một thứ “quân lương” độc đáo trong suốt thời kỳ chiến tranh ác liệt trên khắp chiến trường Tây Nguyên.

Lịch sử cây mì lên Tây Nguyên đã từng được đưa vào cả Nghị quyết Đảng ủy khi Liên khu V có chủ trương đưa cây mì cấp tập từ miền xuôi qua ngả đường Quảng Ngãi - Kon Tum, để giải quyết tình trạng khan hiếm gạo trên chiến trường Tây Nguyên. Sách “Kon Tum - 100 năm lịch sử và phát triển” của Tỉnh uỷ Kon Tum, viết (lược trích): “Đặc biệt, tỉnh chủ trương đưa cây sắn (mì) từ đồng bằng Trung bộ lên Kon Tum… vào vị trí lương thực chiến lược. Cây sắn được trồng khắp các nơi, ở khắp các vùng trong tỉnh, vươn ra tận đường 14, trở thành những rừng mì, núi mì kháng chiến. Và chính nhờ cây sắn ta có được nguồn lương thực dự trữ lâu dài, phục vụ và chủ động mở các chiến dịch lớn giành thắng lợi”.

Trong hồi ký “Như núi như sông”, Anh hùng LLVT A Tranh (dân tộc Xơ-đăng) kể (lược trích): “Một lần anh Xuân đi công tác ở Đăk Kôi về cho tôi một gùi những khúc cây to hơn ngón tay cái có nhiều mắt và mấy củ chừng bằng cổ tay con nít. Anh bảo đây là cây sắn, có nơi gọi là cây mì. Các anh bộ đội của anh Kiên hành quân từ dưới xuôi lên, mỗi người cõng theo 30 cây lên trồng và tặng đồng bào… Rồi ai cũng nói phải kiếm thêm cây giống. Vượt sự bao vây kiểm soát của địch, vượt núi rừng mà đi thôi! Các anh bộ đội đã cõng từ xuôi lên thì mình phải đi lấy về mà trồng chớ! … Chúng tôi biết ơn đồng chí Trần Kiên, một trong những người đã chủ trương vận động trồng cây mì khắp núi rừng để cứu đói, để nuôi quân dài lâu… Anh Kiên nói anh chỉ đề ra nhiệm vụ phát triển loại cây có khả năng giúp đồng bào có cái ăn… Vì hành quân đường dài nên mỗi người chỉ mang 30 cây, cho nên phải mất nhiều mùa mới nhân được giống và phổ biến đến bà con ở đây”.

Cây sắn được trồng để nấu, luộc ăn tươi hoặc phơi khô ấy, theo cách gọi tại chỗ, là loại mì gòn, cây cao lá thưa, củ bùi, bở. Trước đấy Tây Nguyên đất rộng, người thưa, các nông lâm thổ sản dư sức nuôi người nên cây mì chưa cần thiết phải trồng nhiều. Chỉ đến thời kháng chiến, đường tiếp tế lương thực khó khăn, trong “cái khó ló cái khôn”, lãnh đạo Khu V mới có quyết sách tuyệt chiêu ấy.

Cách gây dựng những “kho dự trữ lương thực mì” cũng rất độc đáo và sáng tạo. Trong hồi ký “Tự chuyện đời tôi” của ông Nguyễn Tập, nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ Kon Tum giai đoạn 1965-1971 viết (lược trích): “… đưa cây mì thành cây chiến lược, trồng ở khắp nơi, từ những mảnh đất ven nhà, nương rẫy, triền đồi, bờ sông… Nhờ vậy, từ năm 1961 về sau ở Kon Tum bạt ngàn là mì, mì của nhân dân, mì của cán bộ các cơ quan, mì của bộ đội. Có các rẫy mì mang tên “Mì đoàn kết”, “Mì cứu đói”, “Mì thống nhất”, “Mì đánh Mỹ” v.v…”. Điều này cũng được Anh hùng LLVT A Tranh kể: “Chúng tôi quy định, cứ đào bụi mì ăn thì chặt hom cắm xuống ngay. Như vậy đào một bụi mì thì có năm đến sáu bụi mì mới. Chính vì vậy Đăk Ui trồng rất nhiều cây mì, mì từ vụ này để qua vụ khác, hễ bộ đội, dân công đi qua thì cứ nhổ nướng ăn. Chúng tôi gọi là rẫy mì cách mạng”.

Trong hồi ký “Trọn một con đường”, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Tư lệnh Binh đoàn Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), cũng viết (lược trích): “… đặc biệt là sắn rất sẵn, nhờ chủ trương “ăn củ trả cây”… Sắn là “sâm Trường Sơn”, mà “sâm Trường Sơn” không bao giờ thiếu…”.

Trong hồi ký “Thời sôi động” của đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), viết: “Sau 6 tháng, bộ đội đã trồng trên 30 triệu gốc sắn… Vào mùa đông năm 1966, các đơn vị tại chỗ cũng như lực lượng hành quân từ ngoài Bắc qua căn cứ Tây Nguyên, tuy gạo còn thiếu nhưng sắn thì đủ no”.

Thấy sự lợi hại của loài cây chiến lược này, quân đội Mỹ đã ra sức phá hoại, triệt tiêu. Anh hùng LLVT A Tranh viết: “Những cánh rừng xanh ngút sau một ngày địch thả chất độc hoá học là trở màu đỏ và rụng hết lá, chỉ còn thân trơ trọi, cao vút … Củ mì cũng phình to, không ai dám ăn”. Tuy nhiên, các rẫy mì vẫn vươn xanh khắp núi rừng Tây Nguyên. Sau kháng chiến thắng lợi, thỉnh thoảng người đi rừng ở đây còn bắt gặp những rừng mì cây đã “hóa mộc” cao to!

Những rẫy mì “huyền thoại” không những đi vào ký ức bao người, mà còn là nguồn cảm hứng cho văn chương nghệ thuật. Trong hồi ký “Ký ức Tây Nguyên” của thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó Chính uỷ Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), ngoài nhiều đoạn dài viết rất kỹ về những rẫy mì, còn chép lại nguyên văn bài thơ “Sắn ở rừng Trường Sơn” (của nhà thơ Cảnh Trà) khi ấy: Bọn tôi tới những nơi tưởng không có hơi người/ Thì rẫy sắn lại hiện ra xòe lá vẫy/ Sắn, rồi sắn… cứ biếc lên như vậy/ Khắp một vùng lũng hẹp, dốc cao/ Như là sắn của trời cho, muốn dỡ, có sao đâu/ Dỡ để luộc, dỡ để gùi… được tất!/ Một trung đoàn ư? Một sư đoàn ư? Thả sức!/ Đây nồi-sắn-Thạch-Sanh mà, không thể hết, đừng lo…/ Vào đây lần đầu, xin bạn nhớ cho:/ Có thói quen của đồng đội đi trước ta để lại/ Dỡ một gốc hãy trồng thêm mấy gốc/ Gặp bom phạt cây nào, chặt cành gãy trồng thay/ Bọn tôi lội vào những rừng sắn ở đây/ Cây mới nhú mầm, cây đã tầm tay với/ “Đội ngũ sắn” cũng có nhiều lứa tuổi/ Cũng như là trong đội ngũ chúng ta/ …/ Nhớ các chị, các anh tới phát rẫy năm nào/ Dưới mỗi gốc: máu, mồ hôi thấm đọng/ Tình đồng chí ngấm bùi hương vị sắn/ Đường đi lá biếc xôn xao… (Dốc Thoải - Trường Sơn, 27-3-1969)

Mãi sau này, những người lính Trường Sơn năm xưa vẫn còn nguyên hình ảnh những rẫy mì trong ký ức qua rất nhiều thơ văn, hồi ký khác… Một trong những tác phẩm như vậy là bài thơ “Những nương sắn Tây Nguyên” của nhà thơ Thanh Thản - anh Giải phóng quân quê cố đô Ninh Bình - cảm xúc sau chiến tranh trong dịp thăm lại chiến trường xưa tại Tây Nguyên: Đường hành quân đến đâu cũng gặp/ Những nương sắn xanh ngời đất Tây Nguyên/ Đồng bào trồng sắn nuôi cách mạng/ Những trảng đồi dài bỗng hoá những kho lương/ Mỗi gốc sắn nói lời của đất/ Mỗi gốc nhổ lên, hom trồng xuống kịp thời/ Suốt bao năm bom đạn thù tàn phá/ Nương sắn Tây Nguyên vẫn xanh đất xanh trời/ Tây Nguyên ơi, Tây Nguyên ơi, nhớ lắm/ Nhớ củ sắn thơm, nhớ khúc sắn bùi/ Nhớ một thuở đói no cùng sắn/ Những nương sắn xanh – xanh mãi giữa lòng tôi.

Ngày nay, cây mì đã là cây hàng hoá. Nhiều giống mì cao sản được phát triển để tăng năng suất. Hằng năm, mì được trồng đại trà khắp chốn. Nương rẫy Tây Nguyên đâu đâu cũng xanh ngút ngát một màu mì xanh. Tuy nhiên, cây mì “gòn” phục vụ cho việc “ăn tại chỗ” những năm kháng chiến xưa, nay đã lui vào hàng thứ yếu (vì năng suất thấp), chỉ còn được trồng một ít nơi góc rẫy, xó vườn, thậm chí ở những khoảnh đất đầu thừa đuôi thẹo bên lề phố, để… ăn chơi. Ở Kon Tum, rất dễ bắt gặp các mẹ, các chị Ba-na, Xơ-đăng… ngồi bên hè phố bán dăm mớ mì gòn. Ai đã quá ngán ngẩm cao lương mĩ vị thì dừng xe mua vài củ về nấu ăn chơi cho… lạ miệng! Thi thoảng bắt gặp những chiếc xe đạp ba bánh tự chế đạp lòng vòng khắp các ngã phố bán mì củ nấu sẵn; nhìn những thỏi mì trắng tinh, tơi bở, nóng hôi hổi bốc khói thơm nghi ngút, đã… bắt thèm! Mỗi buổi chiều tà ngả sang đêm, ở những góc ngã ba ngã tư đông người qua lại, các chị các cô ngồi quạt lửa nướng những khúc mì gòn, những củ khoai lang, những trái bắp nếp; cái mùi vị quê mùa, dân dã ấy cứ loang xa trong không khí, như vấn vương khắp đất trời, thơm đến nao lòng, gợi nhớ về ý thơ Tố Hữu: Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng... Ôi, sao mà thương, mà da diết…

         T.V.S

Bài viết khác