

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
Truyện ngắn của nhà văn Đinh Ngọc Lâm có hai nguồn cảm hứng chủ đạo: Đồng cảm, xót thương chia sẻ với những phận người nhỏ bé gặp lắm tai ương, thua thiệt trong cuộc sống giàu tinh thần nhân đạo của chủ nghĩa nhân văn và luận bàn về các hiện tượng xã hội mang tinh thần thức tỉnh. Trong bài này, người viết chỉ tập trung chia sẻ cảm nhận của mình về những truyện ngắn luận đề xã hội của nhà văn.
Nhà văn Đinh Ngọc Lâm lựa chọn viết truyện ngắn luận đề xã hội là ông tự làm khó mình, song điều ấy lại giúp ông đem đến cho thể tài này một cách tiếp cận, miêu tả hiện thực đời sống xã hội đương đại qua một cách nhìn, một giọng điệu khác.
Viết truyện ngắn luận đề xã hội có cái khó riêng, nó không giống với những truyện ngắn viết về bi kịch đau thương của những thân phận con người lắm nỗi éo le, tủi cực vốn được biểu hiện bằng giọng điệu trữ tình thương cảm dễ đi thẳng vào lòng người đọc bởi sự hấp dẫn, cuốn hút của nó. Còn truyện ngắn viết theo thể tài luận đề xã hội vốn nghiêng về chính luận, giàu luận lý để phản biện, thức tỉnh con người trước những chông chênh, bất cập của đời sống xã hội, viết không khéo dễ tạo ra một văn bản ngôn từ giản đơn, xơ cứng, minh họa cho ý tưởng định sẵn của tác giả.
Nội dung xã hội mà nhà Văn Đinh Ngọc Lâm đặt ra và phản biện đều là những vấn đề thế sự gần gũi, quan thiết trong đời sống xã hội đương đại.
Đó là sự đứt gẫy giữa hai thế hệ cha và con trong bước chuyển mình của xã hội mà “Thời của ba tôi” (“Di ngôn”- Tr55) là một truyện như thế.
Nhân vật trung tâm của truyện ngắn này là “ba tôi” theo lời kể của cô con gái út trong gia đình. Người con trai thứ nhận xét ông “… thuộc thế hệ vàng của đạo đức cách mạng, nhưng lại bảo thủ, trì trệ”. Cả đời quan chức ông sống cần kiệm, chí công vô tư, ngay cả khi đã được nghỉ hưu, ông vẫn giữ nguyên vẹn nếp sống ấy. Mùa hè nóng nực, không dám lắp điều hòa không khí, chỉ dùng quạt tai voi, khi con trai ngủ rồi là “ba tôi tắt xoạch”. Phòng ở của ông “lúc nào cũng có vại cà nén và cái liễn to uỵch chuyên đựng su hào muối xổi do ông tự làm”. Con hỏi: “Sao đất nước mình khổ thế ba?”. Đó là câu hỏi lớn của xã hội khi đất nước bước ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc nhưng vẫn giữ cơ chế quan liêu bao cấp trong một thời gian dài. Là một quan chức trong giai đoạn ấy ông cũng chịu, không biết lý giải thế nào cho phải, đành đổ lỗi tất cả cho điều kiện khách quan: “Tại chiến tranh con ạ!”
Ông trung thành với lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào sự đi lên của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của đất nước bằng niềm tin mãnh liệt, trong sáng nhưng ngây thơ kiểu như anh cán bộ tuyên huấn nói chuyện thời sự với nhân dân về khai thác tài nguyên: “Mỏ dầu của chúng ta là giếng dầu thế giới, hút lên đến đâu dầu lại dồn về đến đấy” chả mấy chốc mà giàu có. Không chấp nhận kinh tế thị trường, ông hướng cho các con mình học hành thành đạt phải vào làm việc trong cơ quan nhà nước, hoặc làm “chính trị gia”, xem đó là cứu cánh để phục vụ đất nước. Vì vậy, ngay với người con trai cả vào Nam làm kinh tế tư nhân, ông phê phán là “ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình”.
Thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có điều tiết của chủ nghĩa xã hội, bên cạnh cái được còn nảy sinh những biểu hiện tiêu cực như tham ô, hối lộ, chạy chức, chạy quyền, ông cứ ngơ ngẩn tự hỏi: “Tại sao lại như thế?” Câu hỏi này được ông láy đi láy lại đến ba lần bởi những điều ấy không diễn ra ở thời của ông.
Trái lại các con ông trưởng thành ở thời kỳ đất nước đổi mới, “mở cửa”, chúng phải đối diện với kinh tế thị trường khắc nghiệt, “thương trường là chiến trường”. Sự chuyển đổi của nền kinh tế đối với chúng đều mới lạ, lại chưa được cha ông chuẩn bị cho chúng tâm thế mới để hành xử cho thích hợp, mọi người hăm hở làm ăn có thắng, có bại. Thẩm, người con trai cả tốt nghiệp Đại học không vào làm việc trong cơ quan nhà nước như kỳ vọng của ba mình, anh đưa vợ vào Nam mở Công ty riêng rồi cũng thành nhà doanh nghiệp vừa, kinh tế vững chãi. Còn Thấm - người con trai thứ đi du học ở nước ngoài về, không chịu được cảnh đất nước nghèo nàn, dân tình còn thiếu thốn! Với anh khổ thì còn chịu được,còn nghèo thì “nhục lắm”. Thế là anh vội vã lao vào công cuộc làm giầu bằng mọi cách: móc ngoặc với quan chức trong tỉnh, liên doanh với nước ngoài với hy vọng nhanh chóng phất lên nhưng cuối cùng sự nghiệp đổ bể phải bỏ đi trốn nợ. Đến lúc này ông mới ân hận muộn màng là không chuẩn bị cho các con ông những điều cần thiết để chúng từ ao nhà vươn ra biển lớn một cách an toàn.
Thông điệp mang đến cho người đọc qua truyện ngắn này là sự đứt gẫy của quá trình chuyển giao giữa hai thế hệ cha và con trong bước chuyển mình của xã hội, đặt ra bài học cần phải có sự kế thừa và phát triển. Thế hệ trước không áp đặt mà phải tạo ra tiền đề vững chắc để thế hệ sau kế thừa nối tiếp và thế hệ sau cần tỉnh táo, có kiến thức, bản lĩnh để hội nhập với thế giới làm giàu cho gia đình và xã hội.
Vấn đề mâu thuẫn dòng họ trong truyện ngắn “Có một truyện như thế” (“Tấm gương chiếu hậu” -Tr83).
Truyện ngắn này lại tập trung phản ánh, lý giải về mâu thuẫn dòng họ (họ Võ và họ Ngô) từ sau cải cách ruộng đất. Họ đã có lời nguyền “còn thằng Hợi này thì họ Võ còn không đợi trời chung với họ Ngô”, phía bên kia tuyên chiến lại: “còn thằng Mầm này thì không được đứa nào lấy chồng, lấy vợ họ nhà thằng Hợi”. Lời nguyền ấy đã khoét sâu vào mâu thuẫn giữa hai dòng họ, gây ra bi kịch oan nghiệt cho con cháu cả hai bên. Hậu quả là nó đã bóp chết tình yêu chân chính của bọn trẻ, rồi cả hai họ ngậm đắng nuốt cay khi biết có cháu đích tôn giả, biết mà không dám than thở kêu ca. Mâu thuẫn này lên đến đỉnh điểm là hai thằng cháu đích tôn giả ấy (thằng Xanh và thằng Ngọ) cạnh tranh làm nhà giáp tường nhau ngoài mặt đường. Bên này không cho bên kia bắc dàn giáo trát tường, cứ để “lộ nguyên phần xây mộc lem nhem”; bên nhà xây ba tầng làm lún móng, nứt tường nhà hai tầng bên kia, rồi nhà Ngọ kiện nhà Xanh ra tòa, Xanh phải xuống nước nhờ Ngọ rút lại đơn kiện sẽ bồi thường mười triệu đồng. Suy cho cùng, hai đứa trẻ ấy cũng chỉ là nạn nhân của sự thâm thù giữa hai dòng họ.
Phần cuối truyện, hai ông chú thực hiện kế “ly gián” người gọi Ngọ, người gọi Xanh đi uống rượu để nói chuyện riêng với từng đứa “biết đâu ta lại cởi nút”. Và bữa rượu ấy “như bài thuốc linh nghiệm giải độc cho hai thằng cháu bị bùa mê”. Rồi bữa rượu tiếp sau đó có mặt cả hai ông chú và hai đứa cháu của họ Võ và họ Ngô được hai chú kể cho nghe “một tác phẩm văn học viết về cái làng này, về chúng mày… nghe xong thì về mà nghiền ngẫm”. Câu chuyện đó đã thức tỉnh hai đứa cháu, làm chúng xúc động, mạnh dạn cởi bỏ mặc cảm, bước qua lời nguyền để trở lại với “tình thân của hai nhà, hai dòng họ bắt đầu được nối lại”. Truyện đặt ra và lý giải vấn đề quan trọng nảy sinh ở làng xóm là không thể lấy hận thù để giải quyết mâu thuẫn; chỉ có tình thương yêu, nghĩa xóm làng mới hóa giải được lời nguyền của những mâu thuẫn, oán thù của các dòng họ nơi làng xã.
Truyện ngắn “Tấm gương chiếu hậu” (“Tấm gương chiếu hậu” Tr51) lại đi vào vấn đề khiếm khuyết, bất cập trong lãnh đạo của một bộ phận người “có hàm cấp quan chức” trong xã hội mắc bệnh quan liêu, xa rời thực tế. Tác phẩm chỉ tập trung vào hai nhân vật: người giáo viên hướng dẫn lái xe và người học viên học lái xe vốn là một quan chức hàng tỉnh. Người giáo viên vừa hướng dẫn những thao tác vận hành lái xe, vừa thao thao bất tuyệt về chuyện đời, chuyện làm việc của quan chức khiến cho vị cán bộ này cảm thấy “nghe như lý thuyết cuộc đời”, nhận ra ở đấy “tính triết lý được rút ra từ trong đời sống thường ngày…”. Ông ngộ ra một điều người lãnh đạo “chỉ quen nói bắt người ta nghe…” và “chỉ quen nghe những lời nịnh bợ lấy lòng của cấp dưới”.
Truyện còn nhấn mạnh đến một điểm chí cốt nữa của một bộ phận quan chức là rất ngây thơ, thiếu hiểu biết thực tế. Xe không lùi lại theo ý muốn của thủ trưởng, hỏi thì lái xe trả lời “để quên số lùi ở nhà” mà người thủ trưởng ấy cũng tin và không quên nhắc nhở “lần sau nhớ mang theo số lùi”…
Khi trực tiếp một mình lái xe tham gia giao thông (nghĩa là đi vào thực tế đời sống) thì vị “có hàm quan chức” này lại rất lúng túng không làm chủ được tay lái trước “nhịp điệu hối hả, chen chúc, lạng lách… làn trái, làn phải, đèn xanh, đèn đỏ rối tung cả đầu” để phải chịu hậu quả đáng tiếc nơi ngã tư có đèn xanh, đèn đỏ bởi không nhìn gương chiếu hậu nên vừa bị phạt, vừa bị hạ nhục. Hóa ra làm lãnh đạo đâu phải chuyện dễ, nó đòi hỏi người cán bộ cần phải có cái nhìn toàn diện (nhìn trước, nhìn sau, nhìn trái, nhìn phải), vừa có lý luận vừa nắm được sự vận động của thực tiễn giống như người lái xe để xử lý các tình huống, đưa ra những quyết sách phù hợp với qui luật cuộc sống. Đó là tư tưởng chủ đề của truyện ngắn “Tấm gương chiếu hậu”.
“Vườn cảnh” (“Tấm gương chiếu hậu” Tr143) là chuyện về tuýp người “trưởng giả học làm sang”.
Nhân vật “tôi” tự bạch về thú chơi chim cảnh của mình. Vốn được “gọi là thành đạt”, bắt đầu được người ta “để mắt”, anh ta chơi cây cảnh. Vườn cảnh của anh ta đủ loại cây quý “đi trong vườn là như thấy mình đã bước lên một đẳng cấp khác” nhưng anh ta vẫn cảm thấy “thiếu thiếu”… “hương vị” của “một khúc hát, một cung đàn”. Thế là anh ta đi mua chim cảnh về nuôi như chào mào, họa mi, khiếu đặc biệt là con vẹt chỉ biết nhại tiếng người nghe vui tai: “xin chào”, “phải đấy”, “cảm ơn”, “rất tốt”, “em xin”… Anh ta chơi chim cảnh nhưng không có kiến thức chăm sóc các loài chim, vô tình biến mình thành người bóp chết tiếng chim hót mỗi sớm mỗi chiều. Thực chất anh ta không hiểu biết gì về đời sống, tập tục sinh hoạt của các loài chim từ việc cho chúng ăn uống, tắm táp cũng như kích cỡ các lồng chim đều phải phù hợp với từng loài chứ không thể rập khuôn xô bồ như nhau. Thế là dần dà lũ chim ủ rũ “thỉnh thoảng một con nhướng cổ cố cất tiếng yếu ớt, cái âm thanh nghe thoi thóp, vừa ai oán, vừa nuối tiếc”. Rồi “sau một đêm thay đổi thời tiết, sáng ra khu vườn nhà tôi thật thê thảm, các lồng chim không cái nào động đậy, chúng đã chết hết”. Và đến lúc này anh ta mới nhận ra một điều đơn giản nhưng trở thành nguyên tắc: “phải hiểu chúng thì mới chơi được”.
Anh ta định bụng sẽ ra Hà Nội mua lại những con chim “đẳng cấp” để “tái tạo lại cái không gian vườn nhà”. Nhưng nhờ một hôm được một người bạn rủ đi chơi vườn Cúc Phương, nghe thấy tiếng chim hót lảnh lót trong veo “tinh khiết đến nỗi xóa tan được đám mây và nâng vòm trời lên cao mãi” và anh ta được “nghe thấy hơi thở của rừng, nhịp thở an nhiên, hài hòa”. Nhân vật “tôi” nhận ra rằng chỉ có thế giới tự nhiên tự do, phóng khoáng, an lành mới nuôi dưỡng được “bản năng phong phú trời cho” của muôn loài. Đến lúc này anh ta dẹp bỏ ý định tiếp tục đi mua chim cảnh và quyết định giải phóng cho con vẹt vốn được anh ta “nuôi nó để làm trang sức, để mua vui” khiến cho nó “kiêu hãnh”, “sĩ diện” để đến nỗi “suýt nữa thì đời nó bị bế mạc bởi nanh vuốt của con mèo”. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã kí thác vào đó một lời bàn về văn hóa chơi chim cảnh: Không phải ai cũng biết nuôi dưỡng, chăm sóc và biết lắng nghe tiếng hót của các loài chim cảnh nhất là những người hay khoe mẽ thuộc dạng “trưởng giả học làm sang”. Nghề chơi này cũng lắm công phu, nó thuộc về những người biết yêu quý thiên nhiên, cảnh vật, trước hết họ phải có tri thức và nhân cách văn hóa để chơi cây cảnh, chim cảnh.
“Ếch xanh” (“Tấm gương chiếu hậu” Tr191) bàn về chuyện chung tay bảo vệ môi trường sống của muôn loài. Tác phẩm luận đề xã hội này viết dưới dạng truyện ngụ ngôn hiện đại, mượn truyện loài vật nói chuyện loài người về “hiểm họa” tàn phá môi trường sống của tự nhiên và con người.
Mở đầu truyện là khung cảnh đời sống của con người đang đứng trước “hiểm họa kinh hoàng”: “Động đất. Cánh đồng nổ tung”, mặt đất biến thành ao hồ “những đám ao hồ khác biến thành gò đồi nhấp nhô… mặt đất náo loạn, loài người dỡ bỏ nhà cửa ra đi…” “chuột bọ, bò sát sinh sôi, quần tụ trong bãi tha ma” ngập tràn tử khí.
Giữa không gian đổ vỡ hoang tàn khủng khiếp ấy, xuất hiện một chú ếch xanh cô độc, tha thẩn đi tìm đồng loại sau cơn động đất, không may “trượt chân ngã cắm đầu xuống một cái hố sâu. Ở đấy ếch xanh gặp chú trê trỗn đang “nhởn nhơ” cùng với trê mẹ và đàn nòng nọc dưới cái hố chôn người mới được cải táng. Mấy ngày sống ở bãi tha ma, ếch xanh đã “thu lượm được khá nhiều chuyện mà lại toàn chuyện người” từ những tâm sự của các oan hồn “than phiền, kể về dương gian”. Chúng chiêm nghiệm và thấm thía điều này: “Loài nào vô phúc mà gần loài người thì dễ có nguy cơ tiệt chủng, giời bây giờ cũng phải sợ người, giời làm ra động đất cũng là do loài người sai khiến”. Bởi họ đã ra tay tàn phá môi trường tự nhiên, làm biến đổi khí hậu và đang phải trả giá trước Mẹ thiên nhiên. Theo những oan hồn nhận xét: “Loài người vừa khôn ngoan vừa độc ác… rồ dại tìm đến cái chết”. “Họ làm tiền, thích thỏa mãn mọi thứ, đỉa, côn trùng, sâu bọ họ cũng cho là món ăn đặc sản, đưa các loại thú hoang vào sách đỏ, rồi lại bảo kê săn bắt về các nhà hàng để phục vụ cho chính đám quản lý sách đỏ”. Họ xây dựng những ống khói “làm ra tiền thì ít, nhưng thả ra chất độc thì nhiều, nguồn nước, bầu không khí kêu gọi thảm thiết”…
Cái kết của truyện ngắn này gây ấn tượng mạnh: “Chớp rạch ngang trời, tiếng sét dữ dằn dội xuống tựa hồ như bổ đôi trái đất. Một đám khói xanh bay vút, mang theo ếch lên không trung. Về trời hay về đâu, miễn là xa rời khỏi mặt đất ma quỉ này”. Đây là cuộc trốn chạy con người của loài vật để bảo tồn tính mạng. Truyện dừng ở đó, nhưng dư âm của nó còn vang vọng trong tâm thức người đọc; nó cảnh báo, thức tỉnh con người phải biết yêu quý và có trách nhiệm chung tay gìn giữ, xây dựng môi trường sinh thái trong sạch, tinh khiết, an lành cho muôn loài.
Như trên đã nói, viết loại truyện ngắn luận đề xã hội cho hay, hấp dẫn là rất khó, nó đòi hỏi nhà văn phải tạo ra giọng điệu trần thuật, tranh biện phong phú, sinh động cho từng vấn đề đặt ra trong mỗi tác phẩm. Nhà văn Đinh Ngọc Lâm ý thức rõ điều ấy và ông đã xử lý khá tốt hình thức nghệ thuật ở mỗi truyện ngắn viết về thể tài này. Trong những truyện ngắn trên, với tư cách là người phát ngôn, Đinh Ngọc Lâm luôn giấu mình đi để tạo ra nhiều điểm nhìn nghệ thuật qua không gian, thời gian và các ngôi trần thuật khác nhau.
Ở truyện ngắn “Thời của ba tôi”, chân dung tinh thần của nhân vật chính, sự đứt gẫy giữa hai thế hệ cha và con chủ yếu được biểu đạt qua lời kể của người con gái út (tự xưng là tôi) khiến cho vấn đề luận bàn vừa thân thiết, vừa khách quan dễ chiếm được lòng tin đối với người đọc. Với truyện “Có một câu chuyện như thế”, mâu thuẫn của hai dòng họ Ngô và họ Võ được tác giả lý giải qua hai nhân vật “hắn” và “gã” dưới dạng một truyện văn chương có lớp lang. Nó tự nhiên phóng khoáng, có những đoạn gợi cảm gây xúc động như cảnh miêu tả tâm trạng của Thái những tối trốn nhà ra vườn chuối “gần văn chỉ họ Võ” để gặp Tuất hoặc diễn biến tâm trạng của hai đứa cháu là Xanh và Ngọ trong những bữa rượu với hai ông chú để giải lời nguyền thù oán của hai dòng họ. Ở truyện ngắn “Tấm gương chiếu hậu” trong nửa đầu tác phẩm, tác giả để co hai nhân vật: người hướng dẫn lái xe và người học lái xe vốn là một quan chức trực diện đối thoại với nhau để làm nổi bật vấn đề tác giả định bàn luận ấy là sự quan liêu bảo thủ có phần ngây thơ của người cán bộ. Hoặc nửa sau tác phẩm, nhà văn lại để cho người học viên học lái xe một mình tham gia giao thông lúng túng như gà mắc tóc để ông ta tự thức tỉnh cái điều người làm quan thiếu bản lĩnh và kỹ năng xử lý các tình huống trong thực tế. “Tấm gương chiếu hậu” là biểu tượng nghệ thuật về phong cách của người lãnh đạo. Còn truyện ngắn “Vườn cảnh”, tác giả lại để cho chính nhân vật xưng “tôi” tự bạch về sự thất bại của mình khi chơi chim cảnh, sự sám hối của bản thân dẫn đến việc anh ta giải phóng cho con vẹt khỏi cuộc sống tù túng, nhạt nhẽo suốt ngày chỉ có mỗi việc nhại lại tiếng người. Phần cuối truyện giàu chất thơ làm cho câu chuyện sinh động. Đến truyện ngắn “Ếch xanh” lại được tác giả viết với một búp pháp khác - kiểu truyện ngụ ngôn giàu tưởng tượng gây ám ảnh, chứa đựng tư tưởng nghệ thuật về bài học bảo vệ môi trường tự nhiên.
Nhà văn Đinh Ngọc Lâm là người từng trải, giàu vốn sống về thế sự và ông đã xử lý khối vốn sống ấy một cách chừng mực, có hiệu quả. Hy vọng ông còn tiếp tục sáng tạo được nhiều truyện ngắn hay hơn nữa ở thể tài này.
Những ngày cuối năm Quý Mão 2023
(Nguồn: TC VNNB Số 294-6/2024)