

Đã 55 năm kể từ ngày Bác Hồ kính yêu đi xa, nhưng những lời dặn dò trong Di chúc của Người vẫn luôn được các thế hệ người Việt Nam ghi nhớ và thực hiện. Di chúc là “tài liệu” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để viết, sửa chữa, bổ sung. Người đã cân nhắc từng ý, từng lời; nhưng mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành như chính cuộc đời mà Người đã sống, trăn trở suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân.
Năm 1965, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta ở vào giai đoạn ác liệt, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc thiêng liêng với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật" gồm ba trang, ở cuối đề ngày 15/5/1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn. Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19/5/1969, Bác còn tiếp tục sửa chữa bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ ngày 19/5/1969, là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần cuối cùng tất cả các bản Di chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong bì và cất đi... Sau khi Bác mất, ngày 9/9/1969, trong Lễ truy điệu Người, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xúc động công bố bản Di chúc của Người. Đó là bản Di chúc hoàn chỉnh được ghép từ các bản Di chúc mà Bác đã viết, sửa và bổ sung hoặc thay thế trước đó, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bảo vật quốc gia mang tầm cương lĩnh của Đảng, là tâm nguyện, tình cảm, kết tinh tâm hồn cao đẹp, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tận trung với Tổ quốc, với Đảng, tận hiếu với Nhân dân và sự nghiệp cách mạng.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền, đồng thời giá trị của Di chúc còn là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta; là điểm hội tụ trí tuệ lỗi lạc, thể hiện sâu sắc tư tưởng của một lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục Nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh thái. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc, kết tinh tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, phong cách mẫu mực, trái tim nhân ái bao la của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Những nội dung cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam hôm nay và tương lai.
Các bài học qua 55 năm thực hiện Di chúc vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục phát huy trong giai đoạn cách mạng mới: Bài học về tinh thần lạc quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của Đảng; bài học về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; bài học về sự quan tâm đặc biệt sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước; bài học về chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân; bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng.
Thấm nhuần sâu sắc triết lý trong bản Di chúc của Bác Hồ, Đảng ta đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. 55 năm qua, đất nước ta đã có được thành tựu vô cùng to lớn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; tiến hành thắng lợi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới và là một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút FDI. Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng. Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" đã góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng luôn quan tâm chăm lo, đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ, coi đây là lực lượng kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế. Thực thi đường lối đối ngoại đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lý luận, chính sách “ngoại giao cây tre” đã tạo những bước ngoặt có tính lịch sử, thay đổi về chất trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác lớn, tạo nên vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Các văn kiện của Đảng, nhất là nghị quyết từ Đại hội Đảng lần thứ IX đến XIII đều khẳng định văn hóa là nền tảng xã hội, xác định “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Văn hóa được xác định “là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, các cấp ủy đảng, chính quyền cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, để văn hóa phát triển hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại, làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa giữ được cốt cách, bản sắc và “chất văn hóa” của truyền thống dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi thở của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn minh mà nhân loại, hướng đến chân - thiện - mỹ, vì sự hoàn thiện nhân cách và xây dựng con người Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian đi thăm, động viên và làm việc cụ thể với chính quyền địa phương, bà con nông dân, cán bộ, công nhân các tỉnh, trong đó có tỉnh Ninh Bình. Trong khoảng 15 năm, từ tháng 1-1946 đến tháng 7-1960, Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình vinh dự và tự hào được 5 lần đón Bác Hồ về thăm. Lần đầu tiên, ngày 13-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Giám mục Lê Hữu Từ và đồng bào thị trấn Phát Diệm (huyện Kim Sơn). Lần thứ hai, ngày 10-2-1947, giữa lúc cuộc kháng chiến, kiến quốc chống thực dân Pháp diễn ra cam go, quyết liệt, để kêu gọi toàn dân ủng hộ kháng chiến, Bộ Canh Nông tổ chức Hội nghị Điền chủ toàn tỉnh Ninh Bình tại xã Lạng Phong, huyện Nho Quan. Lần thứ ba, ngày 15-3-1959, Bác Hồ về xã Khánh Cư (huyện Yên Khánh) và xã Ninh Sơn, huyện Gia Khánh (nay là phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình) ân cần thăm hỏi, động viên, khích lệ cán bộ, bà con nông dân và bộ đội hăng hái lao động quên mình chống hạn cứu lúa và về Thị xã Ninh Bình nói chuyện với hơn 2000 đại biểu cán bộ và nhân dân. Lần thứ tư, ngày 18-10-1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự Hội nghị sản xuất vụ đông xuân năm 1959 - 1960 tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, Uỷ ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ chức. Lần thứ năm, ngày 20-7-1960 Bác Hồ đã tới thăm nông trường Đồng Giao, Tam Điệp, Ninh Bình. Trong 5 lần Bác về thăm Ninh Bình, dịp Bác về dự Hội nghị sản xuất vụ đông - xuân ngày 18-10-1959 là dịp thể hiện rõ nhất tình cảm sâu sắc của Bác với Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta. Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về dự và nói chuyện với Hội nghị. Những lời dạy của Bác tại Hội nghị không chỉ gói gọn trong nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, không chỉ có giá trị trong vụ sản xuất đông - xuân năm 1959 - 1960 và trong 3 năm thực hiện kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) mà còn mang tầm bao quát và có ý nghĩa to lớn soi đường, chỉ lối cho Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình trong sự nghiệp cách mạng lâu dài. Đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết ngoài Đảng, đoàn kết lương - giáo, thi đua sản xuất, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hành tiết kiệm đều là những vấn đề căn cốt mà Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình luôn phải khắc ghi và thực hiện tốt để vươn lên, phát triển vững mạnh về mọi mặt, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đến thắng lợi vẻ vang. Dịp Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ X, ngày 26-5-1969, Bác đã gửi tặng Đại hội bức chân dung của Bác có ghi những lời dặn dò vô cùng quý báu đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình “Khuyên cán bộ một lòng, một dạ phục vụ nhân dân. Chúc đồng bào các dân tộc đoàn kết chặt chẽ, sản xuất tốt, chiến đấu giỏi, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Thực hiện mong muốn của Bác Hồ dành cho Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân Ninh Bình trong 65 năm qua (1959 - 2024), cùng với việc thực hiện những điều căn dặn của Bác trong Di chúc (1969 - 2024), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Ninh Bình luôn đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, góp phần cùng với nhân dân cả nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tích cực khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Đặc biệt, từ sau khi được tái lập (năm 1992 đến nay), tỉnh Ninh Bình đã vươn lên giành được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực. Đảng bộ tỉnh đã định hình rõ quan điểm phát triển kinh tế theo hướng nhanh, mạnh và bền vững, tập trung vào 03 trụ cột động lực để tăng trưởng kinh tế: Công nghiệp phụ trợ công nghệ cao, công nghệ sạch; Nông nghiệp hữu cơ, sinh thái, tiên tiến; Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và đang hướng tới mục tiêu: Phấn đấu đến 2035, xây dựng tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo, cực tăng trưởng khu vực các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Hồng, hình mẫu kết hợp hài hòa giữa phục dựng, bảo tồn di sản và tăng trưởng xanh, hướng vào chất lượng phát triển, giữ vững địa bàn vững chắc về quốc phòng và an ninh. Kinh tế của tỉnh Ninh Bình đã đạt được mức tăng trưởng khá qua các giai đoạn. Quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, chuyển dịch tích cực, tăng nhanh tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp nhưng vẫn tăng về giá trị. Khu vực dịch vụ dần trở thành thế mạnh của tỉnh. Sản xuất công nghiệp có bước tiến lớn đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách của tỉnh. Du lịch Ninh Bình có sự chuyển mình mạnh mẽ, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới (năm 2014) đã mở ra cơ hội, vận hội lớn đưa du lịch Ninh Bình trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thương hiệu, hình ảnh du lịch Ninh Bình gắn với di sản thế giới Tràng An được lan tỏa và quảng bá rộng rãi trên bình diện quốc tế, qua đó, thu hút lượng khách đến với Ninh Bình ngày càng tăng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và du lịch của địa phương. Văn hóa - xã hội của tỉnh có nhiều tiến bộ, bản sắc văn hóa và sức mạnh con người Ninh Bình được phát huy; ngành giáo dục Ninh Bình nhiều năm liền xếp trong tốp các địa phương đứng đầu cả nước về điểm trung bình các môn trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông. An sinh xã hội, y tế, đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, toàn diện, là điểm sáng ấn tượng. Quốc phòng, quân sự, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quan tâm chỉ đạo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và đạt kết quả tốt; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng được nâng cao, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; hệ thống chính trị và khối đoàn kết toàn dân được củng cố vững mạnh.
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
55 năm đã qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đồng hành cùng dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong đời sống của đất nước. Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2024), 55 năm ngày mất của Người (02/9/1969 - 02/9/2024) và 65 năm Bác Hồ về thăm Ninh Bình là dịp để chúng ta ôn lại, khẳng định giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc trong Di chúc, tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc đối với Người; củng cố và bồi đắp niềm tin của các tầng lớp Nhân dân đối với Đảng; qua đó góp phần cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; ra sức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh theo tâm nguyện Di chúc của Người; tiếp tục phát huy thành tựu 55 thực hiện Di chúc của Người, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và năm 2030, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường đoàn kết quốc tế, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Đại hội XIV của Đảng là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai; tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Nước ta sẽ là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
*TLTK: HD của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Ban TGTW.
TRUNG KIÊN
(Nguồn: TC VNNB Số 297-9/2024)