Chủ nhật, 19/05/2024

Một số tư liệu mới về danh sĩ Trương Hán Siêu

Thứ ba, 06/11/2018

ĐẶNG CÔNG NGA

 

Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, lại còn tên tự nữa là Trác Như (nổi lên) để nhắc tới tên Siêu (cao cả), hiệu là Độn Tẩu, lại còn tên hiệu nữa là Miễn Liêu (từ quan về với chốn hư không), sinh năm 1274 (Tư ước đền Phúc Am), mất năm 1354, thọ 80 tuổi, quê ở xã Phúc Thành, huyện An Ninh, phủ Trường Yên (phường Vân Giang, thị xã Ninh Bình cũ), là một danh nhân đã được nói đến nhiều. Nhưng do nguồn tư liệu quá thiếu thốn, nên sự hiểu biết về ông còn rất phiến diện, nhiều vấn đề sử sách còn để trống hoặc viết không thống nhất, như vợ con, gốc gác dòng họ, học hành, con đường tiến thân, hoặc sự nghiệp thơ văn của ông... Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến một số bài thơ do Trương Hán Siêu sáng tác chưa được giới thiệu rộng rãi.
 Trước đây người ta thường cho rằng, Trương Hán Siêu còn để lại bảy tác phẩm ký, thơ, phú (riêng bài biểu Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ, bộ Hoàng triều đại điển, bộ Hình thư để, đều thất truyền).
Gần đây chúng ta biết thêm một bài ký nữa do Trương Hán Siêu soạn vào năm 1312 có đầu đề là Cổ tích thần từ bi ký - Lịch đại gia ban phụ ký tại quán Lại Yên, xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Như vậy, tính đến thời điểm năm 2015, người ta chỉ giới thiệu mười tác phẩm gồm ký, thơ và phú (kể cả các tác phẩm thất truyền). Dưới đây là danh sách các tác phẩm của ông phân theo thể loại.
1. Thể ký (văn xuôi) có 4 tác phẩm: Bia đá Cổ tích thần từ bi ký Lịch đại gia ban phụ ký 古跡神祠碑記; 歷代加頒附記 (năm 1312), Bia đá Khai Nghiêm tự bi ký 開嚴寺碑記 (năm 1339), Bia đá Dục Thuý Sơn Linh Tế tháp ký 浴翠山靈濟塔記 (năm1343), Bài biểu Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ 謝除翰林院直學士 (không còn).
2. Thể thơ có 4 tác phẩm:
Quá Tống đô 過宋都, Bia thơ: “Sơn sắc chính y y” 山色正依依 (Thơ văn Lý-Trần ghi đầu đề là Dục Thuý sơn 浴翠山), Cúc hoa bách vịnh 菊花百詠, Hoá Châu tác 化州作 (năm 1354).  
3. Thể phú có 1 tác phẩm: Bạch Đằng giang phú 白滕江賦.
4.Thể loại hội điển có 1 tác phẩm: Hoàng triều đại điển 皇朝大典, Bộ điển chế lớn của triều Trần (không còn).
5. Thể loại luật pháp có 1 tác phẩm: Hình thư 刑書 (không còn).
Mới đây chúng tôi phát hiện thêm bốn bài thơ do Trương Hán Siêu sáng tác được ghi chép lại trong các tập sách tư gia của Bố chính sứ Đỗ Kiêm Thiện và Tuần phủ Ninh Bình Phan Đình Hòe, đó là các bài Tại gia hữu cảm 在 家 有 感, Dạ đáo Vân Sàng thị 夜 到 雲 床 市, và bài không có đầu đề nói việc ông đến thăm đền thờ nữ tướng Lê Chân ở thôn Lạt Sơn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, bài Bệnh tác thi nhất thủ 病 作 詩 一 首. Dưới đây xin giới thiệu nguyên văn bốn bài thơ trên, như một phần đóng góp vào việc tìm hiểu danh sĩ Trương Hán Siêu thời Trần, người con đất Cố đô Hoa Lư lịch sử. Do khuôn khổ bài viết, chúng tôi lược bỏ phần dịch nghĩa, chỉ giới thiệu phần nguyên văn chữ Hán, dịch thơ và chú thích mà thôi. Phần chữ Hán và phiên âm dẫn theo Dương Văn Vượng, phần dịch thơ là của Đặng Công Nga.
Bài thơ: Tại gia hữu cảm
Chữ Hán:                                     

      在 家 有 感
身 不 親 兮 故 鄉 人
古 時 以 語 始 知 甄
無 錢 難 望 心 忠 孝
有 力 難 求 事 舊 辛
福 自 勤 功 當 信 重
富 從 儉 用 莫 貪 瞋
潭 由 淤 墊 多 魚 菜
作 即 和 平 保 一 身   

Phiên âm:
       Tại gia hữu cảm
Thân bất thân hề cố hương nhân
Cổ thời dĩ ngứ thủy tri chân
Vô tiền nan vọng tâm trung hiếu
Hữu lực nan cầu sự cựu tân
Phúc tự cần công, đương tín trọng
Phú tòng kiệm dụng, mạc tham sân
Đàm do ứ điếm đa ngư thái
Tác tức hòa bình bảo nhất thân.(1)

Dịch thơ:
     Cảm nghĩ tại nhà
Thân chẳng thân ai tại cố hương
Từ xưa đã thế, nỗi tai ương
Không tiền khó trọn điều trung hiếu
Dư sức khôn cầu nỗi xót thương
Phúc bởi siêng cần, nên nhớ lấy
Giàu do dè sẻn, chớ tham ăn
Ao sâu rau tốt, nhiều tôm cá
Sống cảnh an bình để giữ thân.

Bài thơ: Dạ đáo Vân Sàng thị
Chữ Hán:
     夜 到 雲 床 市
近 林 有 市 有 江 津
同 現 于 斯 會 一 宭
吳 主 何 時 來 晚 境
黎 皇 此 日 聚 諸 軍
水 兵 可 拒 垂 人 識
民 漸 而 繁 仰 聖 恩
忽 見 風 中 歌 女 曲
終 身 商 賣 未 離 貧

Phiên âm:
     Dạ đáo Vân Sàng thị
Cận lâm hữu thị, hữu giang tân
Đồng hiện vu tư, hội nhất quần
Ngô chủ hà thì lai vãn cảnh
Lê hoàng thử nhật tụ chư quân
Thủy binh khả cự, thùy nhân thức
Dân tiệm nhi phồn, ngưỡng thánh ân
Hốt kiến phong trung ca nữ khúc
Chung thân thương mại vị ly bần.
           (Xem chú thích 1 ở trên)

Dịch thơ:
    Đêm đến chợ Vân Sàng
Gần rừng có chợ bến sông Vân
Cùng lúc nơi đây người tụ quần
Ngô chúa năm nao từng ngắm cảnh
Lê hoàng ngày ấy hội chư quân
Thủy binh ngăn giặc, ai người biết
Dân một ngày đông, nhớ Thánh ân
Bỗng nghe trong gió lời ca nữ
Buôn bán suốt đời vẫn khó khăn.

Bài thơ: Vô đề
Chữ Hán:
黎 女 深 坑 在
徵 朝 古 廟 居
陽 公 兄 弟 有
山 石 後 先 書
南 國 南 君 主
落 地 落 耕 耡
一 寸 當 無 棄
求 來 早 信 歟

Phiên âm:
Lê nữ thâm khanh tại
Trưng triều cổ miếu cư
Dương công huynh đệ hữu
Sơn thạch hậu tiền cư
Nam quốc Nam quân chủ
Lạc địa Lạc canh sừ
Nhất thốn đương vô khí
Cầu lai tảo tín dư.(2)

Dịch thơ:
Lê nữ quèn Voi Trượt
Triều Trưng miếu cũ còn
Ông Dương cùng huynh đệ
Chuyện sau trước truyền ngôn
Nước Nam vua Nam quản
Đất Lạc dân Lạc tồn
Một tấc không để mất
Người sau lấy làm gương.

Bài thơ: Bệnh tác thi nhất thủ
Chữ Hán
     病 作 詩 一 首

千 里 長 途 遠 鎮 方
初 來 已 見 病 難 當
四 邊 蜂 起 皆 強 盜
一 處 荒 年 未 足 粮
將 命 常 憂 多 受 怨
撫 安 力 勸 後 來 祥
回 京 有 召 無 人 替
恭 祝 皇 圖 萬 歲 昌

Phiên âm:
        Bệnh tác thi nhất thủ
Thiên lý trường đồ viễn trấn phương
Sơ lai dĩ kiến bệnh nan đương
Tứ biên phong khởi giai cường đạo
Nhất xứ hoang niên vị túc lương
Tương mệnh thường ưu đa thụ oán
Phủ an lực khuyến hậu lai tường
Hồi kinh hữu triệu vô nhân thế
Cung chúc hoàng đồ vạn tuế xương.

Dịch thơ:
             Làm thơ trong lúc đang mang bệnh
                         (bài thứ nhất)
Ngàn dặm đường xa trấn viễn phương
Bệnh tình quá nặng khó mà đương
Bốn bên loạn lạc quân cường tặc
Một xứ hoang tàn chẳng đủ lương
Mệnh vua dẫu cố nhiều người oán
Khuyên giáo rồi sau sẽ cát tường
Chiếu vua cho nghỉ, ai thay thế
Mong nghiệp nhà vua vạn tuế xương (3)
                                                                            Đ.C.N
Chú thích:
1. Bố chính sứ Đỗ Kiêm Thiện: Bán thế quốc âm thi tập, năm Nhâm Ngọ đời vua Bảo Đại (1942), nhà Hán Nôm học Dương Văn Vượng, nguyên cán bộ Bảo tàng Hà Nam Ninh biên dịch tháng 11 năm 2017, bản đánh máy. 2. Tuần phủ Ninh Bình Phan Đình Hòe biên tập, Dương Văn Vượng biên dịch, năm 2017, bản viết tay. Phan Đình Hòe chú rằng đây là bài thơ Trương Hán Siêu sáng tác khi ông đến thăm ngôi cổ miếu thờ bà nữ tướng Lê Chân tại thôn Lạt Sơn (nay thuộc xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam). Bài thơ của Phan Đình Hòe Đáo Lạt Sơn vấn Lê Chân cố sự nói về người con gái họ Lê theo Hai Bà Trưng đi đánh giặc Hán qua đây, voi bị trượt, nên còn địa danh quèn Voi Trượt, về sau dân lập miếu thờ bà, được nhà vua sắc phong hiệu là Sơn Anh. Phan Đình Hòe dựa theo bài thơ của Trương để làm cảm hứng cho bài thơ của mình; 3.Bài thơ không nói rõ Trương Hán Siêu đang ở đâu, nhưng có thể khẳng định ông nhận mệnh vua Dụ Tông vào trấn trị vùng đất Hóa Châu vào năm 1353-1354. Đây là vùng đất dữ về hoàn cảnh quân sự, chính trị, lại khắc nghiệt về thời tiết, cho nên Trương phải rất cố gắng hoàn thành mệnh vua, chỉ sau một năm, nhưng rồi ông bị bệnh nặng, được vua cho về triều song bị mất trên đường. Bài thơ này chỉ nói chung chung là có chỉ vua cho Trương được về quê (không phải như sử cũ viết Trương được triệu về kinh), nhưng theo bài thơ Quá Trương công cố lỵ của Vũ Huy Trác có câu: Nhị phiên hữu dụ hứa lai hương (Hai lần có dụ cho về quê) thì nói rõ mặc dù chỉ ở vùng Hóa Châu khoảng một năm, mà có tới hai lần nhà vua ra chỉ dụ vời ông trở về, chứng tỏ vua Dụ Tông cũng biết lúc này (năm 1354), ở tuổi 80, Trương đã rất ốm yếu, khó lòng ở mãi nơi gian khổ Hóa Châu.
  Dẫn theo lời chú trong tập Giang sơn nhật hành ký của Lộng Điền Tiến sĩ Vũ Huy Trác, nhà Hán học Dương Văn Vượng sao chép lại năm 1972.

Bài viết khác