Chủ nhật, 19/05/2024

Mùa xuân chiến thắng

Thứ hai, 25/02/2019

TRUNG KIÊN

Kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng

Kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước, đồng thời tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sĩ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã cống hiến, hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vẻ vang ở thế kỷ XX.

Từ lâu, nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân hai nước có chung khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động nước ngoài kích động, hậu thuẫn, ngay sau khi lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 4/1975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia, thi hành hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến, tàn bạo.

Thực hiện chính sách diệt chủng ở trong nước Campuchia, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary lấy cớ làm sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ thành những người nô lệ; thực hiện nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, thi hành chính sách diệt chủng đối với trí thức, tôn giáo, người dân tộc thiểu số, Việt kiều và đảng viên, công chức, binh lính không đi theo đường lối phản động của chúng. Trong thời gian Pol Pot cầm quyền, chúng đã giết hại hàng triệu người vô tội, đặt dân tộc Campuchia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm trọng an ninh của các nước trên bán đảo Đông Dương. Đất nước Campuchia xinh đẹp trở thành đống đổ nát, hoang tàn, biệt lập, chết chóc và đau thương.

Tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary ra sức phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị lâu đời của nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia, vu khống Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kích động xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam – Campuchia. Năm 1975, Pol Pot đã vô cớ  xâm lấn biên giới đất liền các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk thuộc Tây Nam nước ta, tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam, có nơi trên 10km như ở vùng sông Sa Thầy (Gia Lai, Kon Tum), xâm lược các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, giết hại dân thường Việt Nam với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn. Đi đôi với hành động xâm lược, tập đoàn Pol Pot ra sức tuyên truyền, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”. Từ 30/4/1975 - 30/4/1977, Pol Pot đã ráo riết chuẩn bị chiến tranh.

Chúng phân chia lại đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn, xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, kích động tâm lý chống Việt Nam; xây dựng lực lượng, phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng vạn quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên giới Việt Nam. Với dã tâm xâm lược, đêm 30/4/1977, tập đoàn phản động Pol Pot  chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam, mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang. Từ 30/4/1977 - 05/01/1978, Pol Pot liên tiếp mở 3 cuộc tiến công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam, đánh vào các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, Tây Ninh. Từ 06/01/1978 - 07/01/1979, chúng xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, bắn pháo vào những nơi đông dân cư, gây ra  hàng loạt tội ác thảm sát đẫm máu đối với đồng bào ta dọc biên giới Việt Nam-Campuchia.

Trước hành động xâm lược trắng trợn của tập đoàn quân Pol Pot, xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây tổn hại cho mối quan hệ giữa hai nước, để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, đập tan hành động xâm lược của kẻ thù, bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Các lực lượng biên phòng, dân quân, du kích đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn địch. Quân đội ta đã sử dụng 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn 330, 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương An Giang đánh trả. Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các đơn vị thuộc các Quân khu xây dựng phương án, sẵn sàng chiến đấu.

Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pôn Pốt ở nhiều khu vực trên biên giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố lực lượng. Từ 5/12/1977 đến 5/01/1978, Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 và Quân khu 7, Quân khu 9 tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công trên các hướng đường 7, đường 1, đường 2, truy kích quân Pol Pot sâu vào đất Campuchia 20-30km; đánh thiệt hại 5 sư đoàn, làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch. Cùng với việc tổ chức lực lượng vũ trang đánh lui quân địch, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nỗ lực ngoại giao nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Tuy nhiên, mọi nỗ lực ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới của Chính phủ ta đều bị tập đoàn Pôn Pốt từ chối. Chúng tiếp tục phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta. Trước tình hình đó, từ ngày 23/12/1978, các đơn vị Quân đội ta chuyển sang mở cuộc tổng phản - tiến công quyết liệt trên toàn tuyến biên giới, dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Đến 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm. Đồng thời giúp đỡ những người cách mạng Campuchia làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội, hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của lực lượng vũ trang cách mạng chân chính Campuchia phát triển. Trong thời gian từ tháng 5 - 11/1978, Việt Nam đã giúp LLVT cách mạng Campuchia phát triển được 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo.

Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và trên tinh thần quốc tế trong sáng, “giúp bạn là mình tự giúp mình”. Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, cùng với cùng quân dân Campuchia tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot. Ngày 26/12/1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pol Pot bị phá vỡ. Ngày 06/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam và LLVT của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia bắt đầu tổng công kích vào Thủ đô Phnôm Pênh. Ngày 07/01/1979, Thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng. Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và ra tuyên bố: Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pol Pot, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Ngày 17/01/1979, toàn bộ đất nước Campuchia được giải phóng.

Thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời, sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.

Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pol Pot, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình. Với thắng lợi ngày 7/01/1979, quan hệ hai nước Việt Nam - Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước. Chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot đã góp phần giữ vững hoà bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.

Trong tiến trinh phát triển của lịch sử dân tộc luôn gắn liền với những chiến công. 40 mùa xuân qua kể từ sau Chiến thắng ngày 07/01/1979, mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam – Campuchia được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, xanh tươi. Ôn lại kỷ niệm hào hùng trong âm hưởng giao hòa, hương sắc mùa xuân mới đang tới, là để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện hơn tầm vóc, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam (1975-1979), rút ra những bài học kinh nghiệm quý để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tự hào, biết ơn công lao và sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh, chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc mọi diễn biến của tình hình, xác định rõ đối tượng, đối tác của cách mạng, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm độc lập, chủ quyền của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia vì hòa bình, độc lập dân tộc và sự ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

T.K

-------------
*Theo tài liệu Ban Tuyên giáo Trung ương; Tổng Cục chính trị QĐND Việt Nam

Bài viết khác