Chủ nhật, 19/05/2024

Linh hồn của đá ong

Thứ tư, 08/07/2020

Tản văn của NGUYỄN THANH DUYÊN
(Kính tặng cô tôi và làng đồi Quỳnh Lưu) 

Trưa tháng sáu, nắng chói chang, đất đồi đỏ quạch chỉ chực chờ có một bánh xe lăn, một bàn chân đạp lên là đất bụi tung cuộn như túm khói toé loe trên đường. Bụi tung lên cả dãy tường đá ong khô mốc, ráp, lỗ chỗ, chạy quanh co theo dưới những tán cây cổ thụ lâu đời.

Tôi chưa lớn đã thấy tường đá ong rồi, ngày nhỏ thường lẫm chẫm men ra mé tường, sờ tay vô cái lỗ chỗ cậy cậy, bới bới. Rồi theo bờ tường ấy lần ra tận cuối làng đón mẹ về chợ. Cả tuổi thơ tôi vin theo tường đá ong, nép dưới ngôi nhà xây bằng viên đá ong, dần lớn lên!

Lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc. Ấy là tiếng xe bò của thầy tôi đã về. Bao giờ thầy cũng trở về nhà lúc quá trưa. Nắng tháng ba nhễ nhại, gay gắt trên cánh đồng xanh lúa và cái đói vàng mắt. Con bò già nhẫn nại bước từng bước chậm mà chắc, miệng túa ra từng nạm bọt sùi trắng, nó khát nước. Tôi chạy ra theo thầy:

- Hầy, thầy về! Cho con đi với! - Thầy tôi khoả cái roi bò.

- Hừm!

Chỉ chờ có thế, tôi nhảy tót lên xe, ngồi trên những viên đá tổ ong được xếp vuông chằn chặn. Cái xe lóc lóc, lóc cóc lăn bánh đến cuối làng. Nhà ông Đấu đây rồi.

- Ho ...o họ!

Sau tiếng ra lệnh ấy, con bò dừng lại, nó thờ ơ không thái độ gì, miệng vẫn nhai sùi bọt mép. Thày tôi tháo cái vai bò lên, được thoát ách nó chậm rãi bước ra khỏi đôi càng. Hai bố con xếp từng viên gạch xuống xe, bê vào tận trong vườn ổi. Cây ổi chín thơm ghê mà con chó nhà bà Đấu cứ gầm ghè làm tôi chả dám tí toáy quả nào. Phủi tay bám bụi, thày tôi nhận tiền rồi lại “Hầy” con bò chịu cổ vô ách và chậm rãi ngược đường về nhà.

Năm nào cũng vậy, khi lúa trong nhà không còn, lúa ngoài đồng chưa chín, sắn, khoai và lạc thì đang xuống củ. Việc nhà nông không còn mấy, cái ăn lại thiếu. Đàn ông trai tráng trong làng vác mai vào đồng rừng tìm đào đá ong. Đám đất có đá ong phải là những mảng đồi thấp, đất rắn, rắn như đá, chỉ có cây sim, cây mua, cây chàng ràng, cây ngái mọc lúp xúp. Có những chỗ đất trơ ra không cây nào mọc lên được, là chỗ có đá ong. Những người đàn ông miền đồi núi hai bàn tay to rám nắng, khô mốc đường chỉ tay và sần chai các đầu ngón. Những bàn tay ấy, giơ cuốc lên, bổ đánh phập xuống lớp đất rắn đanh tựa đá ấy, gợt bỏ khoảng bốn, năm mươi centimet bề mặt đất lộ thiên, thì tạo được cái giếng. Giếng đá ong. Lúc này là dùng cái mai, đâm, trổ những nhát chính xác và thật sâu để tạo ra được những viên đá: đá ong hình chữ nhật tầm như viên gạch bi bây giờ. Viên đá nâu vàng, sần sùi, lỗ chỗ như tổ ong mà rắn câng. Một giếng đá thường là ba người thợ làm chung, buổi sáng đánh được chừng 50 viên đá là nhiều. Đó là tìm được những mảng đồi rắn và chất lượng đá cao. Vậy rồi lại đặt lên xe bò lọc cọc chở đi bán. Lúc ấy người ta nghèo cũng mua đá rẻ ấy thôi. Đá ong thường để xây công trình phụ, xây cổng. Nhà nào khó thì dùng xây nhà. Những tường đá ong lúc ấy với tôi như một công trình kiến trúc mê mẩn vì kì bí. Tôi thường sờ tay vào mặt đá thô nhám, lỗ chỗ, nhìn cái màu nâu vàng xếp lớp lang lên nhau. Quê tôi đất rộng, tường bao bằng đá ong chạy dài quanh co dưới lùm nhãn, dâu da, vải, bưởi, và mít, mít nhiều vô kể lủng lẳng bám đầy cây.

Tường đá ong           Ảnh minh họa: Internet

Đám cưới cô tôi với chú Đặng diễn ra vài tháng trước ngày chú đi bộ đội. Nhà neo người, chú đi bộ đội nhà chỉ còn mẹ già với người vợ trẻ. Suốt cả những ngày ra Tết chú ra đồi chọn một một khoảng đất vàng trơ đá. Tạo một mỏ đá ong, rồi vợ chồng tranh thủ đánh đá đêm sau những buổi đi làm công điểm hợp tác xã. Có những khuya, cô tôi chong đèn dầu, gánh mỗi đầu quang bốn viên đá ong về nhà. Tháng sau thì chú đã xây nên bức tường đá ong chạy bao quanh vườn nhà, lại còn cuốn cái cổng cong cong rõ là đẹp. Bức tường mới nâu vàng xuộm chưa hề dính rêu phong. Chú trồng ở cổng một cây dâu da bảo để cho cô khi có em cu muốn ăn quả chua là có ngay. Chú vuốt ve, sang sửa cái cổng đá ong kĩ càng lắm, bảo cô đang nhào hồ gần đó: “Cổng đá rêu phong ý đợi người”. Cô tôi nói: “Anh cứ yên tâm đi ra trận, ở nhà em đã có mẹ, có tường đá ong này che chở, mấy tháng nữa có cu con nó chờ anh. Khi nào anh về con chắc lẫm chẫm biết đi, ra cổng đón anh đấy”. Vậy rồi chú tôi đi chuyến ấy không về nữa! Mẹ chồng cô đợi con lâu quá nên đã về trước với ông bà tổ tiên. Ngày giải phóng miền Nam cô tôi bế con ra cổng đón chú mà nào đâu thấy người. Bức tường đá ong im lìm chạy dưới những cây nhãn, cây mít trong vườn. Chân tường và những chỗ khuất, loài rêu đã phủ lớp áo xanh xỉn loằng ngoằng đôi chỗ. Ngày qua tháng lại em Sang đã mười tuổi. Một lần em theo chúng bạn đi tắm sông, nước cuốn em đi từ đó không về! Cô tôi còn hai bàn tay trắng! Đau thương chồng chất đau thương!

Tôi đến nhà cô, ra bờ giếng kín nước. Nước đá ong bao giờ cũng trong và ngọt rượi. Buổi trưa, dưới gốc mít, bên giếng đá ong, thả cái gàu cao su nghe rơi um...um...um xuống giếng, dây gầu dài đến hai mươi mét, mãi mới nghe tiếng gàu rơi đánh tẹt trên mặt nước. Ấy là tôi thả gàu đấy, bởi tôi còn lo lộn cổ xuống giếng nên một tay lần thả dây gầu, một tay bám thành giếng xây bằng những viên đá ong. Lúng lắng, lúng lắng rồi cái gàu cũng đầy nước, kéo lên được thì sóng sánh hết một phần ba gàu. Với tay, bẻ mấy cành chè xanh bỏ cả vào nồi bắc lên bếp, nhặt những cành ngô, cây đậu vào đun bếp, vậy là có ấm nước chè xanh sóng sánh thơm dìu dịu, mùi thơm đặc trưng của miền đồi núi đá ong.

Những ngày chăn trâu trên nghĩa trang làng. Thằng Tỏ, đứa hoa văn và lém lỉnh nhất bọn hay vuốt ve những cánh hoa sim, hoa ngái tím bảo: “Ôi đẹp quá, phí quá”. Rồi nó bày trò chơi đám cưới. Chủ hôn là ông Triển già, cầm cái mo cau đọc ê a lý do. Đến đoạn cài hoa tôi không chịu cúi xuống. Thằng Tỏ bảo: “Ly, mày cúi xuống đi, rồi tao đuổi trâu ăn lúa cho, khi nào lớn tao đào đá ong xây cho mày cái lầu hoa”. Thế rồi tôi chưa kịp cúi đầu thì tiếng hô huầy đuổi trâu ăn lúa váng lên, cả bọn chạy cuống ra bờ lúa. Ông Triển già quýnh quáng làm rơi mất tiêu cái mo cau.

Những trưa không ngủ lũ bạn trẻ con chúng tôi chơi trốn tìm trong vườn mít và dãy tường đá ong là thành trì của những cuộc chơi trốn bất tận ấy. Còn nhớ. Nhà bà Lư có đống đá ong gom góp để xây thêm phòng cho anh Lư cưới vợ. Nhưng anh Lư đã đi bộ đội trước ngày cưới, anh bảo: Cưới xong để chị Loan ở nhà tội lắm, biết đâu mình đi mãi không về thì thương chị ý đợi chờ. Vậy rồi đống đá ong cứ nằm đó cuối vườn rập rạp, nó thành cái lô cốt cho bọn trẻ chơi trận giả. Một chiều tối mẹ thằng Xa khóc khóc, mếu mếu gọi: Xa ơi Xa, Xa ơi .... Mãi không thấy con đâu. Cả xóm đồi nháo nhào đi tìm. Thằng Tỏ chui vào vườn bà Lư, chui sâu vào khu lô cốt đá ong, thấy thằng Xa đang ôm súng bẹ chuối dựa lưng vào tường ngủ gờ gờ. Thấy bóng người nó vội giơ súng lên: “Đứng im”. “Tao chứ ai mà đứng im” thằng Tỏ bảo: “Mày về đi, cả xóm đi tìm mày, mẹ mày đang khóc váng lên kia kìa” - “Sao chúng mày bảo tao đứng đây gác lô cốt”.

Thằng Xa như con gái bây giờ ở tận trong Sài Gòn, mang cả mẹ nó vào đấy rồi. Thằng Tỏ thành anh chủ trang trại trồng rừng và nuôi hươu, nuôi dê. Cô tôi già tóc trắng như cước, da đồi mồi, cả một đời sống trong ngôi nhà đá ong như ngày xưa. Mãi sau này cô làm bạn với một chú thương binh trong trại điều dưỡng, chú về đây ở cùng cô. Giếng đá ong vẫn còn dùng, trong và mát. Con gái của cô bây giờ đục một khoảng tường đá ong ra mở gian hàng tạp hoá nhỏ.

Tôi đi xa và lâu nhất, lâu lắm rồi tôi chưa trở lại với những tường đá ong. Chiều nay người bạn khác xứ hỏi: “Tường đá ong nó như thế nào mầy”. Tôi ngơ ngác rồi bật nhớ ra cái cổng đá rêu phong. Thấy tiếng xe bò cút kít của thầy tôi mỗi buổi về làng. Thấy cái giếng nước cuốn cong cong, nước đá ong ngọt ngào làm sao! Tôi bật máy tính, lia nhanh về quê nhà. Ô kìa, anh bạn Tỏ áo kẻ, quần bò đang đứng giữa khu du lịch đồi Soọng. Cái đồi 3km chạy dài trơ đất đá ong đỏ quạch, bây giờ sim, mua tươi tốt, hoa tím và trái chín ngọt lịm, nhìn rưng rưng nước mắt. Và đây! Những viên đá ong được cất xây tinh tế hình thành cả một khu du lịch thẫm đẫm hồn quê trong cái màu vàng nâu ấm áp dưới tán xanh lá rừng và ngàn hoa sim, ngái tím sắc, phong lan, trong ve ve bầy ong bay bay. Viên đá ong vẫn thô ráp mà ấm áp như bàn tay cha tôi ngày nào. Tôi như kẻ đói khát chạy về mâm cơm của mẹ sắp sẵn dưới hiên nhà. Thấy mình thơ bé đang sờ tay vô từng viên đá xù xì thô ráp mà yêu thương gắn bó tựa linh hồn làng. Không kịp trả lời người bạn, bởi có những điều không thể nói mà hiểu đủ. Bởi những viên đá ong ngày xưa xa không thúc mà hối tôi về bên. Vội vã cuốn vali ra thẳng sân bay, tôi về lại quê với những bức tường đá ong như ngày xưa yêu dấu!

N.T.T.D

(Nguồn: TC VNNB 239-6/2020)

Bài viết khác